Nhìn lại hành trình 50 năm chinh phục những “miền đất hứa” của Toyota Corolla

Thế hệ thứ 4 của Corolla chạy theo xu hướng cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, với thân xe vuông vức hơn.
Cùng nhìn lại chặng đường 50 năm phát triển với 11 thế hệ của – mẫu xe bán chạy nhất thế giới, biểu tượng một thời của hãng xe hàng đầu Nhật Bản, Toyota.

Toyota Corolla lần đầu được ra mắt vào năm 1996
Đầu vào năm 1966, hãng xe Nhật Bản Toyota chính thức ra mắt mẫu xe ô tô mới mang tên Toyota Corolla. Kiểu dáng từ siêu nhỏ được gia tăng dần để trở thành dòng sedan cỡ nhỏ (compact) như hiện nay. Năm 1974, Corolla là cái tên nắm giữ danh hiệu Xe bán chạy nhất Thế giới và kể từ đó đến nay, nó luôn là một trong những mẫu xe có doanh số bán ra cao nhất.


Corolla trong tiếng La Tinh có ý nghĩa là “tràng hoa”

Thế hệ thứ 2 của Corolla xuất hiện vào tháng 5/1970, với thiết kế thân xe tròn trịa hơn giống hình chai Coca – phong cách của các mẫu xe Mỹ cùng thời. Corolla thế hệ thứ 2 được trang bị 2 phiên bản động cơ là 1.4l và 1.6l 4 xi-lanh thẳng hàng, với điều khiển van dạng cò đẩy (OHV) thay vì trục cam (OHC).


Vào tháng 4/1974, Toyota cho ra đời thế hệ thứ 3 của Corolla với một kiểu thân xe mới – liftback (hatchback 3 cửa với vòm mái và kính sau dốc về phía đuôi). Như vậy, mẫu xe này đã có tới 5 kiểu thân xe khác nhau: sedan 4 cửa, coupe 2 cửa, panel van 2 cửa, wagon 4 cửa và liftback.


Thế hệ thứ 4 của Corolla chạy theo xu hướng cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, với thân xe vuông vức hơn. Đây là thế hệ Corolla cuối cùng sử dụng hệ dẫn động cầu sau và cũng là thế hệ đầu tiên có tùy chọn động cơ phun nhiên liệu điện tử, chỉ dành riêng cho thị trường Nhật.


Từ thế hệ Corolla 5 (1983-1987) trở đi, mẫu xe này bắt đầu sử dụng dẫn động cầu trước với một số ít phiên bản dẫn động 4 bánh. Tuy nhiên, các phiên bản Corolla Sprinter Trueno hay Corolla Levin vẫn trang bị dẫn động cầu sau – những phiên bản cầu sau “thực sự cuối cùng” của Corolla. Tùy chọn động cơ phun nhiên liệu cũng được mở rộng cho thị trường toàn cầu.


Vào năm 1987, thế hệ thứ 6 của Corolla ra đời với nhiều nâng cấp về tiện nghi, khiến chiếc xe đô thị tạo cảm giác cao cấp hơn nhiều so với thế hệ cũ và những đối thủ cùng thời. Hãng xe Nhật Bản cung cấp rất nhiều lựa chọn động cơ cho xe, bao gồm động cơ siêu nạp và hệ dẫn động 4 bánh 4WD Alltrac.


Vào tháng 6 năm 1991, Corolla thế hệ thứ 7 không chỉ tròn trịa mà còn lớn hơn, nặng hơn. Kể từ thế hệ này, Corolla đã chính thức chuyển sang phân khúc xe cỡ nhỏ (compact) thay vì xe mini (subcompact) như trước đó. Kiểu dáng thân xe cũng được giảm từ 5 xuống 3, bao gồm sedan, coupe và wagon 5 cửa.


Thế hệ thứ 8 của Corolla đánh dấu cột mốc quan trọng khi lần đầu tiên mẫu xe này được lắp ráp tại Việt Nam, với tên mã E110. Thế hệ thứ 8 được sản xuất từ năm 1995 tới 2000 đã soán ngôi Volkswagen Beetle để trở thành mẫu xe có tổng doanh số lớn nhất trong lịch sử – danh hiệu vẫn tiếp tục được giữ vững tới tận ngày nay.


Bắt đầu từ thế hệ thứ 9, Toyota Corolla tại thị trường Đông Nam Á được gọi bằng tên mới là Corolla Altis. Mẫu xe này được đưa về Việt Nam vào tháng 8/2001 và nhanh chóng trở thành một trong những dòng sedan được ưa chuộng nhất trên thị trường.


Tới thế hệ thứ 10, Toyota đem đến hai phiên bản thân xe Toyota Corolla dành cho thị trường Nhật Bản và Thế giới. Trong đó, phiên bản ở Nhật với tên mã E140 được bán với tên gọi Corolla Axio có thân xe hẹp hơn bản quốc tế với tên mã E150. Vừa qua, để mừng sinh nhật 50 năm tuổi, 500 chiếc Toyota Corolla Axio “50 Limited” được sản xuất, sẽ ra mắt thị trường quê hương vào ngày 1/9 tới.


Tính đến tháng 7 năm 2013, qua hơn 11 thế hệ, đã có 40 triệu chiếc Corolla được bán trên toàn Thế giới, hiện con số này vẫn không ngừng tăng. Corolla trở thành mẫu xe bán chạy nhất trong lịch sử của Toyota và là biểu tượng của ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản.

Cùng Danh Mục:

Nội Dung Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *